Mô tả Hatsuharu_(lớp_tàu_khu_trục)

Lớp Hatsuharu ngắn hơn so với những tàu khu trục trước đó, với chiều dài chung 109,5 m (359 ft)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ]. Con tàu có bề rộng mạn thuyền 10 m (33 ft) và tầm nước khi đầy tải 3,35 m (11,0 ft)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ]. Cho dù đã nhấn mạnh đến việc tiết kiệm trọng lượng trong khi chế tạo, những con tàu vẫn bị quá nặng khi hoàn tất, với trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.530 tấn (1.510 tấn Anh) và 1.981 tấn (1.950 tấn Anh) khi đầy tải, lớn hơn gần 130 tấn (100 tấn Anh) so với kế hoạch.[7]

Lườn của lớp Hatsuharu giữ lại cấu hình chung của lớp Fubuki với một sàn trước kéo dài, và mũi tàu được loe ra rõ rệt để cải thiện tính năng đi biển ở tốc độ cao bằng cách tăng độ nổi và giảm thiểu bụi nước trên sàn tàu. Một cấu trúc cầu tàu lớn đặt phía sau sàn tàu trước, và bên trên là bốn trạm kiểm soát hỏa lực các loại, mỗi trạm đều được bảo vệ bằng những tấm "thép Dücol" dày 10 mm (4 inch) chống càn quét và mảnh đạn pháo.[8]

Lần đầu tiên trên một tàu khu trục Nhật Bản, một tháp pháo bắn thượng tầng được bố trí phía trước cầu tàu. Nó chỉ là một tháp pháo nòng đơn Kiểu A để tiết kiệm trọng lượng bên trên của con tàu, và được gấn trên một sàn tàu để nâng nó bên trên tháp pháo nòg đôi Kiểu B đời 2 (B-gata kai-2) gắn trên sàn tàu phía trước. Tháp pháo nòng đôi thứ hai được gắn phía sau con tàu trên sàn chính. Những tháp pháo này nặng hơn đôi chút so với các tháp pháo Kiểu A và Kiểu B trước đây từng trang bị cho lớp Fubuki. Tất cả các tháp pháo đều được trang bị pháo 12,7 cm (5,0 in) Kiểu 3. Lỗ thoát hơi của hai phòng nồi hơi phía trước được sáp nhập chung vào ống khói trước trong khi phòng nồi hơi phía sau thoát khí vào một ống khói nhỏ phía sau. Cả hai ống khói đều nghiêng về phía sau để làm giảm bớt lượng khói có thể bay đến cầu tàu. Một cột ăn-ten ba chân được gắn giữa cầu tàu và ống khói phía trước.[8]

Giữa hai ống khói là dàn ống phóng ngư lôi 61 xentimét (24 in) ba nòng đặt trên một bệ thấp. Phía sau nó là một ngăn chứa ngư lôi nạp thêm với hệ thống nạp nhanh bằng cơ khí cho ba quả ngư lôi dự phòng bên trong. Để duy trì độ ổn định bên, ống khói phía sau được đặt lệch sang mạn phải trong khi bệ phóng ngư lôi được đặt lệch sang mạn trái. Ngăn chứa ngư lôi nạp thêm cũng được đặt hơi chếch sang mạn trái và hướng vào phía trong để thuận tiện trong việc nạp lại ngư lôi. Dàn phóng ngư lôi giữa được đặt phía sau ống khói sau, nhưng ngăn chứa ngư lôi nạp thêm được bố trí tương tự như của bệ phía trước. Dàn phóng ngư lôi ba nòng phía sau được đặt thượng tầng bên mạn phải và chồng lên bệ giữa. Ngay phía sau bệ là ngăn chứa ngư lôi nạp thêm trên trục giữa, nhưng hơi hướng góc sang bên phải sao bệ phóng chỉ cần dịch chuyển một chút là thẳng hàng với ngăn chứa và được nạp lại. Đây là chiếc tàu đầu tiên trong lịch sử trang bị ống phóng ngư lôi trên thượng tầng, do sự khăng khăng của nhà thiết kế muốn trang bị chín ống phóng ngư lôi cho dù yêu cầu của Hải quân chỉ là sáu ống.[8]

Một bệ nhỏ mang một máy đo tầm xa 2 m (6,6 ft) được gắn bên trên kho chứa ngư lôi phía sau, và một đèn pha tìm kiếm 90 cm (3,0 ft) đặt trên một tháp phía sau ống khói đuôi. Hai khẩu pháo phòng không QF 2 pounder Mark II (40mm) pom pom chế tạo theo giấy phép nhượng quyền bởi Vickers được gắn trên một bệ nâng cao phía trước ống khói đuôi. Điều kỳ dị rằng đây lại là trường hợp nhà thiết kế đã vượt quá những yêu cầu do Hải quân đặt ra.[9]

Động lực

Lớp Hatsuharu mang hai bộ turbine hơi nước hộp số Kampon, mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Mỗi bộ bao gồm một turbine áp lực thấp và một áp lực cao, cùng với một turbine đường trương kết nối với turbine áp lực cao. Các turbine trên được nối với trục chân vịt bởi một hộp số giảm tốc hai bánh răng. Chân vịt có đường kính 3,05 m (10,0 ft)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ] và bước xoắn 3,7 m (12 ft)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ]. Tổng công suất của lớp Hatsuharu chỉ có 42.000 hp (31.000 kW) so với 50.000 hp (37.000 kW) của lớp Fubuki dẫn trước, nhưng hệ thống động lực nhẹ hơn và có hiệu suất tốt hơn đáng kể. Hệ thống động lực của Hatsuharu chỉ nặng 106 tấn (104 tấn Anh; 117 tấn thiếu) so với 144 tấn (142 tấn Anh; 159 tấn thiếu) của Fubuki, tức là 396 shaft horsepower mỗi tấn so với 347 mã lực mỗi tấn trên những lớp tàu trước đó.[10]

Tương tự, ba nồi hơi Kampon kiểu Ro-Gō sử dụng cho lớp Hatsuharu nặng 50 tấn (49 tấn Anh; 55 tấn thiếu) so với nồi hơi nặng 51 tấn (50 tấn Anh; 56 tấn thiếu) của lớp Fubuki, nhưng sản sinh công suất 14.000 hp (10.000 kW) mỗi chiếc trong khi nồi hơi cũ chỉ có 12.500 hp (9.300 kW). Điều này đã cung cấp một chỉ số 3,6 kg mỗi mã lực trên chiếc Hatsuharu so với 4,1 kg mỗi mã lực trước đây. Thiết kế mới hơn của nồi hơi cũng sử dụng hơi nước ở áp suất 20 ba (290 psi) giống như kiểu cũ, nhưng áp dụng kỹ thuật siêu đốt nóng để cải thiện hiệu suất trong khi các nồi hơi cũ đơn giản chỉ sử dụng hơi nước bảo hòa.[11]

Một máy phát điện turbine 100 kW được đặt sau hộp số giảm tốc trong một khoang riêng biệt, và hai máy phát điện diesel 40 kW được đặt giữa các trục chân vịt. Vào lúc hoàn tất, lớp Hatsuharu có tầm hoạt động 4.000 hải lý (7.400 km) ở tốc độ 18 hải lý một giờ (33 km/h) với 460 tấn (450 tấn Anh; 510 tấn thiếu) nhiên liệu. Khi chạy thử máy, Nenohi đạt tốc độ tối đa 37,64 hải lý một giờ (69,71 km/h)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ] từ một công suất 47.150 hp (35.160 kW) với trọng lượng choán nước 1.677 tấn (1.651 tấn Anh; 1.849 tấn thiếu).[12]

Vũ khí trang bị

Những tàu khu trục lớp Hatsuharu sử dụng cùng kiểu hải pháo 127 mm/50 Loại 3 đã trang bị cho lớp Fubuki, nhưng mọi tháp pháo đều có thể nâng đến một góc 75°, cho phép dàn pháo chính có khả năng tối thiểu đương đầu với máy bay. Trong chiến tranh, tháp pháo nòng đơn được tháo dỡ trên mọi chiếc còn lại sau năm 1942. Vũ khí phòng không duy nhất là hai khẩu QF 2 pounder (40 mm) Mark II (pom pom) làm mát bằng nước chế tạo theo giấy phép nhượng quyền của hãng Vickers. Những khẩu pháo này được xem là quá nặng nề, bắn chậm và tầm ngắn; nên được thay thế bằng pháo phòng không Hotchkiss Kiểu 96 25 mm chế tạo theo giấy phép nhượng quyền của Pháp trên các bệ nòng đơn, nòng đôi và ba nòng từ năm 1943 cho những chiếc còn sống sót. Không phải lúc nào cũng biết được con số chính xác, nhưng Hatsuharu trang bị ba khẩu đội ba nòng vận hành bằng điện, kể cả một khẩu đội thế chỗ cho tháp pháo 127 mm nòng đơn, một khẩu đội nòng đôi vận hành bằng điện bố trí trên một bệ trước cầu tàu và hai khẩu nòng đơn vận hành bằng tay vào tháng 6 năm 1944. Những khẩu đội 25 mm vận hành bằng điện này không thỏa đáng, vì tốc độ xoay và nâng của chúng quá chậm không thể đối đầu với máy bay tốc độ cao,[13] nên có thêm các khẩu đội nòng đơn được trang bị cho các con tàu vào năm cuối cùng của chiến tranh. Ví dụ như Hatsushimo trang bị mười khẩu 25 mm nòng đơn khi nó bị đánh chìm vào tháng 7 năm 1945. Bốn súng máy Hotchkiss Kiểu 93 13,2 mm chế tạo theo giấy phép nhượng quyền cũng được trang bị cho Hatsushimo, nhưng chúng ít có hiệu quả đối với máy bay hiện đại.[14]

Ngư lôi 610 mm Kiểu 90 được trang bị trên các ống phóng Kiểu 90 loại 2 ba nòng, có nguồn gốc từ loại ống phóng Kiểu 89 nòng đôi được sử dụng trên lớp tàu tuần dương hạng nặng Takao. Các tấm chắn được lắp đặt cho cả bệ phóng ngư lôi lẫn kho chứa ngư lôi để bảo vệ chúng không bị ảnh hưởng bởi thời tiết và sự bắn phá của máy bay. Thoạt tiên các tấm chắn được làm bằng duralumin để tiết kiệm trọng lượng, nhưng chúng nhanh chóng bị ăn mòn nên cần có biện pháp thay thế. Thép "NiCrMo", lấy ra từ các buồng hơi của những quả ngư lôi lạc hậu với độ dày 3 mm, được chọn dùng làm tấm chắn mới để tiết kiệm trọng lượng. Trọng lượng của bệ ống phóng Kiểu 90 loại 2 kể cả tấm chắn là 14,4 tấn chưa tính đến bản thân các quả ngư lôi; và mặc dù được bổ sung thêm một nòng, nó vẫn nhẹ hơn Kiểu 89 (14,5 tấn). Nó được xoay bằng một hệ thống điện-thủy lực, và có thể xoay 360° trong vòng 25 giây; nếu hệ thống quay tay dự phòng được sử dụng, thời gian cần đến là hai phút. Mỗi ống phóng ngư lôi có thể nạp lại trong vòng 23 giây sử dụng dây tời.[15]

Thoạt tiên chỉ có 18 mìn sâu được mang theo trên một đường ray phía đuôi tàu, nhưng được tăng lên 36 quả vào mùa Thu năm 1942. Hình như không có thiết bị sonar hay bộ dò âm dưới nước nào được trang bị cho đến khi chiến tranh nổ ra, khi bộ sonar Kiểu 93 và bộ dò âm dưới nước Kiểu 93 được bổ sung. Cả hai đều kém hơn so với những thiết kế đương thời của Anh và Mỹ.[16]

Radar

Radar đã không được trang bị cho những chiếc còn lại của lớp này cho đến tận cuối chiến tranh, có lẽ vào cuối năm 1944. Chúng được gắn một radar Kiểu 22 trên cột ăn-ten trước, Kiểu 13 trên cột ăn-ten chính và một thiết bị chống radar Kiểu E-27 cao bên trên cột ăn-ten trước.[16]